Thứ Ba, 14 tháng 5, 2019

Tản mạn về từ "Sức mấy"

Nói về từ sức mấy” đây là từ rặc nam bộ xuất hiện thời TT Diệm 1954. Với làn sóng di cư 2 triệu người từ Bắc bộ vào. Việc sắp đặt nơi định cư và sinh sống cho số lượng người khổng lồ là một điều rất khó. Lúc đó dân SG mới dùng từ sức mấy” tức là không biết cần bao nhiêu sức lực để giải quyết một công việc. Thế nhưng chính phủ TT Diệm đã giải quyết ổn thỏa về mặt nhân sinh về chính trị văn hoá và vấn đề an ninh. Điều này chứng tỏ chính phủ của TT Diệm tức Đệ Nhất VNCH thời đó đã làm việc có sách lược và khoa học.

https://nhacxua.vn/tu-ngu-nguoi-sai-gon-xua-dung-trong-giao-tiep/?fbclid=IwAR3pqtwAfsbkQfa1eb5TMGCBDE8KIpdfbi-Yu72yE20jlY0D_rkjnjLK-yo

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2019

Chuyện con ốc con vít ở VN


Đọc mấy bài báo này viết tới viết lui mệt quá, con ốc mà Samsung mua để lắp ráp vào điện thoại đi động xuất khẩu qua Mỹ và Cộng đồng Châu Âu (EC) thì phải tương thích với chuẩn RoHS, tức là nói nôm na hàng tiêu dùng mà các link kiện bằng kim loại không được chứa 8 chất kim loại độc hại: Asenic, Cd, Cr, Pb,. ......hoặc với 1 lượng rất ít cho phép. Do đó 1 dây chuyền công nghệ sản xuất ốc vít đạt tiêu chuẩn này thì cần các điều kiện:- Phôi liệu về thành phần phải đạt yêu cầu, cái này VN chỉ có mua từ nước ngoài, chứ không phải cục sắt nào bỏ vô cũng làm được, công nghệ luyện kim của VN chỉ làm ra tới thép xây dựng thôi. Chứ thép hợp kim hay hợp kim cao cấp thì chưa tới đâu. Công nghệ luyện kim màu thì chỉ ở mức bán thành phẩm, chưa đạt độ tinh khiết thương mại, mà quy mô là nhỏ lẻ.- Chẳng có công nghệ cao siêu gì ở đây: dây chuyền máy móc làm ra ốc vít có sẵn, chỉ bỏ tiền ra mua, nói nôm na là mua về bỏ phôi liệu rồi nhấn nút (dĩ nhiên nói kỹ chắc có rất nhiều nút và phải lập trình cho máy chạy sơ sơ) là xong, năng suất đầu ra là kinh hoàng. Máy chạy không phải người chạy, tức là giá thành rất hạ do năng suất cực cao, không phải do nhân công thấp, sản xuất cái này không cần nhiều  nhân công kiểu như giày da, may mặc như là một lợi thế của VN. Còn ốc vít do VN tự chế tạo máy để làm ra thì xin thôi vậy. Bởi vì ôc vít thiên hình vạn trạng hàng ngàn kiểu và size lớn nhỏ đủ thứ, nền công nghiệp chế tạo máy của VN chẳng có thể nào đeo bám về mẫu mã, thiết kế, chế tạo, sử dụng bản quyền patent lớ quớ xài chùa người ta kiện là chết bỏ.- Công đoạn hoàn tất: công nghệ xi mạ, công nghệ này coi như bí quyết (know-how) của nhà sản xuất thấy tưởng dể mà rất khó ăn, sau khi xi mạ thành phần lớp xi mạ trên cũng phải theo tiêu chuần RoHS.


Cho nên nói rằng VN không làm được mấy con ốc vít chẳng có gì bất thường, nhục nhã hay mất mặc gì sất. Vật liệu mà chúng ta không chế tạo hay luyện ra được dù có sản xuất gia công định hình thì cũng chẳng có gì tự hào cho cam. Điều này giống như cách đây mấy năm, báo chí ca ngợi chúng ta sản xuất được máy tính cá nhân PC, laptop v.v ..... Hehe cái đó thì chỉ là lắp ráp gia công, mặc dù trong đó có thể có linh kiện xuất xứ từ VN thì có quạt CPU, quạt làm mát của Nidec (Nhật), Ồ cứng Fujitsu (bo mạch do nhà máy Fujitsu ờ Biên Hòa làm), một vài thanh RAM như của Unigen sản xuất (khu VSIP), CPU của Intel trong tương lai, .... nhưng những nhà máy này là nước ngoài đầu tư , bằng sáng chế sản xuất là cùa nước ngoài, ... . Ơ hơ thì thôi vậy, chắc có người nào đó nói, vậy có ai đã làm gì cho đất nước được chưa? câu hỏi này qua lớn để lúc khác viết tiếp cái chủ để này. Thôi thì hẹn hàng xóm láng giềng hay cường quốc năm châu là 100 năm chúng tôi sẽ vượt qua các ông. Nếu ai tranh luận nói là 100 là quá nhiều hay quá ít nói là 50 hay 200 năm cũng được, thì tương lai đem so đo nó cũng dể =D . 


PS: Riêng ông Samsung đặt vấn đề cái nhỏ nhặt nhứt là cái con ốc vít chúng tôi cần nhưng mà các ông không đáp ứng được thì nó có ẩn ý của nó, nó thuộc tầm vĩ mô rồi, mà vĩ mô thì liên quan đến chính trị, hehe cái vụ này em không rành, chỉ nghe nói là kinh tế thì chính trị. 

Nguyễn Văn Danh
12/10/2014

Ngu bàn chuyện đưa tiếng Hán vào trường học phổ thông

Xu hướng đưa chữ "tàu" vào học đường đang nổi cộm. Thực ra cái tên gọi cho đúng vẫn chưa ổn, nào là Hán văn, Tiếng phổ thông TQ, v.v .. nó đã khác nhau rất nhiều. Nhiều người lại nghỉ thiết tưởng tiếng Việt với vốn từ Hán Việt chiếm đến 70%, số từ Hán Việt thống kê lên đén 30.000 từ thì Tiếng Việt phụ thuộc vào Hán ngữ là điêu rất dể hiêu lầm. Thực tế khi học bạch thoại tiếng phổ thông TQ và từ Hán Việt ta thấy nó khác nhau rất nhiều, khác hãn sự tương tự gần giống giữa Tiếng Thái và Lào, Tiếng Đức và Áo, Tiếng Ma Lai và tiếng Nam Duong (indoneisa). Nếu vay mượn hoàn toàn sao không phát âm gần giống mà hầu như phát âm khác hẵn rất nhiều, có phần giống Tiếng Nhạt và tiếng Hàn có vốn Hán tự rất nhiều trong ngôn ngữ họ.

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt)
南國山河南帝居,
截然分定在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Nánguó shān hénán dì jū,
jiérán fēn dìng zài tiānshū.
Rúhé nì lǔ lái qīnfàn,
rǔ děng xíng kàn qǔ bài xū.
Cho nên ngu ý tôi rằng có hệ thống ngôn ngữ nói và viết trước khi có Hán tự mà tổ tiên Việt tộc đã dùng, hệ thống chữ viết này đã mất nhưng nó phát triển thành Hán tự hình tượng để ký âm bởi Hán tộc. Sau đó thòi gian tộc Việt bị Bắc thuộc, chính quyền bắc thuộc áp đặt lại Hán tự mà tộc Việt đã từng sử dụng nhưng theo lối chữ viết mới. Không dể gì mà tộc Việt làm chủ Hán Việt một cách thấu đáo mà ta gọi là chữ Nho không thua gì Hán tộc. Do tộc vIêt đã bỏ Hán Việt lâu nên cách nói, ngữ pháp cũng khác nên cha ông ta phải cải biên từ Hán tự qua chữ Nôm cho phù hợp cách phát âm của người Việt sau này. Tiếng Việt hiện đại hiện nay hay Quốc ngũ được ký âm bằng hệ thống ký tự la tinh có một nhược điểm là nhiều từ đồng âm nhưng nghĩa khác nhau, cho nên việc học hiểu rỏ thêm về từ Hán Việt là điều tốt theo lối nho học. Còn việc học Hán văn theo lối học của TQ là tha hóa bản ngữ và nô dịch văn hóa về lâu dài. Dân tộc Do Thái tha phuong cầu thực tản mác khắp thế giới 2000 năm mà họ vẫn giành lại được đất nước một phần là do họ bảo tồn ngôn ngữ của họ.
Nguyễn Văn Danh
Ngày 7/10/2016

Tản mạn về cafe không giống ai của Người Việt

Cafe mà người Việt uống hiện nay thật sự khó mà hình dung là nó từ cafe 100% nguyên chất hay không. Dạo thời gian gần đây các quán cafe rang xay cafe nguyên chất mở ra đã thu hút lượng khách nhất định, nhất là những người sành uống cafe và muốn uống cafe nguyên chất thật sự.

Nói về cafe nguyên chất: những cơ sở bán cafe đã qua chế biến thành cafe hạt, cafe bột pha phin như Trung Nguyên, Phin, Trần Quang, ... . Họ dùng cafe hạt tấm ướp và chế biến xem như cafe nguyên chất nhưng có một điều nên lưu ý là hóa chất và hương vị tẩm ướt có ngon và lành cho cơ thể hay không thôi. Một số quán cafe có thương hiệu, thật sự vẫn cho là cafe nguyên chất nhưng sau khi uống vào có người cảm thấy mệt, tim đập hồi hộp, vã mồ hôi, chóng mặt, nôn nao ..... những triệu chứng này mà nhiều người lầm tưởng do hiệu ứng của cafein gây ra nhưng thực sự không phải, đó là hiệu ứng của những chất pha tẩm vào cafe. Thí dụ nghe nói vài nơi có cho thêm ký ninh vào để tạo thêm vị đắng (cách này không lành), thêm tí nước mắm để tạo vị thơm hay thêm muối để tạo độ dịu của cafe sau khi pha. Nói chung là rất nhiều thiên hình vạn trạng.

Nhưng bài viết này không đề cập về kỹ thuật chế biến cafe nguyên chất, tẩm ướp rang thiêu như thế nào .... để tạo nên cafe ngon và lành hay ngon mà không lành. Mà chì đề cập nhẹ nhàng về cái gọi là cafe pha. Pha thêm đâu nành rang, bột bắp cháy,......

Theo ngu ý của mình, cái thời bao cấp, ngăn sông cấm chợ của những năm sau 1975 và những năm đầu của thập niên 80 đã tạo nên vô vàng sáng kiến của người dân do thiếu thốn về lương thực và những mặt hàng thiếu yếu khác. Lúc đó ai đi xe đi dò đi tàu mà mang vài kilogram thịt heo, thịt bò thì có nguy cơ bị tịch thu mất trắng ngay cả 5, 10 hay 20 kilogram gạo cũng vậy. Những trạm kiểm soát như vậy dọc các tuyến quốc lộ và các kênh, sông chính như Chợ Gạo, Chợ Lách, Măng thít, Tân Hương, … đều có những trạm kiểm soát như vậy. Cái thời thật là khốn khó ấy mà, cái thời nói đúng ra là ngăn sông cấm chợ thật là chính xác.

Café một thức uống thời thượng và phổ biến của dân miền nam trước 75, vào thời gian này, dân tình thiếu thốn café cũng âu rất là bức xúc. Café khó mà được chuyển đi với số lượng lớn từ vùng Long Khánh, Đắc lắc, … về miền xuôi. Mà sản lượng café cũng không nhiều do chính sách nông nghiệp HTX , tập đoàn bị bế tắc. Cho nên sáng kiến pha phụ liệu vào café để giàm giá thành mà vẫn có hương vị của café được phát triển. Ngày xưa người ta pha thêm phụ liệu như một ít bắp rang cháy hay gì đó là chiêu thức cùa nhà rang café làm café ngon hơn nhưng sau đó tỷ lệ của những phụ liệu này càng nhiều hơn do hám lợi về sau này và do tình hình của cái thời khó khăn.

Cái thời bao cấp uống café pha phụ liệu dù sao vẫn còn lành do phụ liệu là những loại hạt cây cỏ tự nhiên. Theo mình nhớ lúc đó còn nhỏ, ái dà chính mình xay café cho bà chị bán tạp hóa ở miền quê lúc đó có hạt bắp rang, hột bình linh, … rất nhiều loại hạt chiếm tỷ lệ gần tương đương với café. Café xay ra vẫn thơm phức cả nhà. Café uống thứ này vẫn ngon và vẫn còn lành.

Còn bây giờ khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiên quá, đến nỗi café bột thì chẳng có 1 hạt café nào được xay ra cả. Tất cả là từ đậu nành, bắp rang cháy và hàng loạt hóa chất tào mùi, vị đắng , chất tạo bọt sóng sánh, v.v và v.v. Nào là nghe nói thêm ký ninh (thuốc trị sốt  rét) tạo vị đắng, chất tạo bọt đồng dạng với chất làm xà bông, hương café hóa chất , chất tạo màu …. Nói chung là không biết rỏ cái gì bên trong.

Làn sóng café rang xay đã ra đời hàng loạt trong thời gian gần đây đã hầu như đáp ứng nhu cầu cùa rất nhiều người uống café. Chính mắt họ thấy ly café được pha ra từ hạt café bỏ vào máy và xay ra htì cũng yên tâm và thích thú hơn. Nói đi nói lại café rang xay dù được tẩm hóa chất có lành không thì cũng hơn cả trăm lần cái thứ café pha không làm từ café. Nói xa một tí, một đất nước xuất khẩu café đứng thứ hai trên thế giới mà người dân lại quen với khẩu vị của loại café pha tả pí lù này hơn là café nguyên chất chính thống. Và người Việt nhiều lúc tự hào xứ tui mùi café rất đặc trưng không giống ai trên thế giới. Thiệt là cái cảm giác nói không ra lời khi thấy nhiều người nghĩ như vậy, cái gu café bị lầm lạc, lạc loài so với cả thế giới còn lại.

Tóm lại tuy mình chê loại café pha không phải từ café. Nhưng nếu mình có công thức pha chế mà các chất trong đó lành tính tự nhiên thì mình có thể sẵn sàng phát triển thành một sản phẩm có thể gọi tên chung là cafa (tức là café pha hương café không phải từ café). Sản phẩm cafa này chắc chắn sẽ rẽ hơn café nguyên chất nhiều thích hợp cho người dị ứng với cafein mà vẫn thích ghiền uống café và sẽ là một loại giải khát mang thương hiệu Việt có một không hai trên thế giới. Thật thật giả giả biết đâu được.

Tản mạn đầu tuần 12/05/2014.

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2019

NHỮNG KÝ ỨC VỀ SÔNG THỊ NGHÈ – NHIÊU LỘC THỜI KỲ SAU 1975

NHỮNG KÝ ỨC VỀ SÔNG THỊ NGHÈ – NHIÊU LỘC THỜI KỲ SAU 1975
Lâu lâu viết linh tinh một chút để luyện thể dục các ngón tay , viết tặng cho Kim Hoàng, Hoàng Nhân bạn cùng xóm thuở nhỏ.
Bài viết về một chủ đề chưa thấy bài báo hay sách nào viết đến, tuổi mình không già cũng không trẻ, người trẻ muốn gọi bằng gì cũng được, hihi viết để đánh dấu ký ức không thôi già quá lẫm cẩm là nó quên hết.
Viết cho người trẻ để biết một chút xíu về Sài Gòn, về những khoảng thời gian chưa phải là lâu, viết để chia sẽ với bạn bè cùng trang lứa, viết cho người lớn tuổi chợt nhớ những ngày nào đó của Sài Gòn.
Tháng 4/1975, Sài gòn lúc đó đã nghe tiếng đì đùng liên khúc của súng đạn mà tôi chẳng biết từ nơi nào những đoàn xe chở đầy lính tráng cứ chạy ngược xuôi đường Phan Thanh Giản nay là Điện Biên Phủ để chạy ra hướng Xa lộ Biên Hòa nay là Xa Lộ Hà Nội.
Trong trí nhớ vẫn còn nghe được tiếng còi báo động ở trường Phước An khi Nguyễn Thành Trung lái máy bay ném bom ngược vào Dinh Độc lập, à tui không thấy chiếc máy bay đó, nhưng vẫn còn nhớ một hay hai chiếc F5 bay đuỗi chiếc này. Các Thầy cô, các Ma-Sơ thì kêu học trò chui xuống gầm bàn để tránh bom.
Và những ngày sau đó Sài Gòn thất thủ, biết bao nhiêu là quần áo tư trang của lính bị vứt ngay xuống sông Thị Nghè cùng với súng ống đạn dược và đủ thứ trên đời.
Nói lan man lạc đề một chút, người ta hay nói Sài Gòn rất hoa lệ, nhưng khoảng thời điểm đó, Sài Gòn toàn là thấy bao cát làm lô cốt, hàng rào thép gai, rất nhiều lô cốt với các lổ châu mai, cảnh sát, quân cảnh, lính gác đầy đường, …. một thành phố thời chiến.
Và sau ngày 30/4 dần dần có một nghề bắt đầu càng ngày càng phổ biến là nghề móc bọc ni-lông (nylon) ở các con sông rạch quanh Sài Gòn. Cả nước bắt đầu khan hiếm về giấy cho nên mới có phong trào làm kế hoạch nhỏ là gom giấy vụn, sách báo cũ. Đồng thời cả nước cũng khan hiếm về nguyên liệu nhựa, nylon để làm các túi, bịch nylon hay ngoài bắc gọi là bọc bóng. Cái bọc nylon bây giờ thì có đủ loại, dày mỏng đủ màu sắc, sạch sẽ tinh tươm, nhưng những người trẻ chắc không hề biết ràng cách đây thời gian không lâu, những bọc này nó có màu nâu nâu, đen đen, cũ cũ, rất bở và mùi rất hôi vào thời những năm cuối thập niên 70 cho tới giữa thập niên 80.
Những bọc nylon này là hàng nhựa tái chế đi tái chế lại không biết bao nhiêu lần và một trong những nguồn cung cấp nguyên vật liệu để tái chế là những bọc nylon được một số người xuống những con sông quanh Sài Gòn để rà soát không chừa một tất đất dưới lòng sông để lượm những bọc nylon về rửa sơ với nước sông phơi khô rồi bán cho các chủ vựa ve chai để kiếm sống.
Nghề của họ là suốt ngày chờ con nước cạn, họ xuống sông và dùng tay, cuốc, đinh ba để đào xới từng miếng sình bùn hôi thối dưới lòng sông và có khi họ đi từng người hay từng đoàn để càn quét có chiến lược cứ như là đi phá rừng làm rẫy. Họ sống bằng nghề gọi là móc bọc nylon. Do suốt ngày họ trầm mình nữa dưới nước nữa trên cạn nên họ có màu da đen tái và thật sự là rất hôi mùi sình cho dù sau đó họ đã tắm rửa.
Thế nhưng ngoài kết quả thu được là những bọc nylon thì lòng sông Thị Nghè thời đó rất nhiều những muỗng nĩa đồ dùng bằng inox của lính VNCH, lính Mỹ mà ai đó hay bản thân người lính đã vứt xuống hay nhà ai đó thấy mấy đồ này có khắc chữ USA sợ liên lụy về chính trị cũng đã vứt xuống sông và rất nhiều thứ dủ loại hầm bà lằng mà có dính dáng tí xíu về chữ USA hay sách báo liên quan đến chế độ VNCH là vứt xuống sông phi tang cho dể. Cái gì cũng tiêu nhưng đồ dùng bằng inox, nón cối, đạn dược, súng ống là vẫn còn đó. Do đó thường xuyên sau một ngày làm việc những người móc bọc nylon đem về ngoài các bọc nylon là đủ thứ trên đời như muống nĩa inox có chữ USA, nón cối, đạn đủ loại, có khi cả súng, súng thì dấu hay phi tang chứ cầm khơi khơi không là bị bắt ngay. Có khi may mắn thì lượm được dây chuyền vàng, bạc. Nếu lượm được vàng, bạc là họ rút ngay, ngày đó nghỉ sớm, xem như trúng quả.
Nghề thứ hai liên quan đến Sông Thị Nghè cũng như một số sông rạch khác quanh Sài Gòn là nghề vớt trùng chỉ. Họ làm nghề này mới nhìn na ná như nghề móc bọc nylon, nhưng nhìn kỹ là họ đem theo một hay cái thau để đựng trùng chỉ. Trùng chỉ là mồi ăn khoái khẩu của các các loại cá cảnh, cá đá, còn cho vịt ăn thì quá sang. Khi con nước bắt đầu cạn thì họ bơi bằng xuồng, xuồng làm bằng tôn, bằng gổ đủ loại ... rồi họ bước xuống sình để đãi và vớt những con trùng chỉ này. Sau đó họ bán cho các chủ bán cá cảnh, cá đá. Nghề này nghe nói là khá hơn nghề móc bọc nylon.
Nghề nữa nói đến là nghề nhổ cừ. Sài Gòn trước 1975 những con sông rạch ở Sài gòn chật hẹp với những nhà sàn trên sông san sát. Sau 1975 một số nhà đi kinh tế mới, thế là lòng sông tự nhiên được thông thoáng hơn, nhà sàn được dở đi, lòi ra nhũng cái cọc cắm xuống lòng sông gọi là những cây cừ. Cừ gổ, cừ bê tông cần phải được nhổ lên chắc là để tái sử dụng cho những nhà cần cơi nới hay sửa chữa. …. . Khi nhổ cừ những người thợ này phải chờ nước cạn hoặc gần cạn, dĩ nhiên toàn là đàn ông thanh niên to khỏe mới làm nghề này được. Họ tất cả đều mình trần với những giá gổ làm điểm tựa và những thanh đòn bằng gổ chắc to được cột vào những cây cừ bằng những sợi xích thật to và thế là họ bẫy từng cây cừ lên. Những nhà cần cơi nới hay sửa chữa thì thuê họ đóng những cây cừ này xuống song lại sau đó lót sàn bằng ván gổ hoặc đúc sàn bằng bê tông.
Có một công việc không biết gọi là nghề hay không đó nghề thả rau muống, thực ra nghề này thì cũng khá lâu rồi, có thể là từ khi Sài Gòn bắt đầu hình thành. Khi đi qua những cây cầu bắc ngang sông Thị Nghè - Rạch Miễu – Nhiêu Lộc thời đó là dể dàng thấy những đám rau muống được thả trên sông, những đám rau muống này đều có chủ, một loại chủ quyền bãi thả rau muống không có văn tự, tự quy định với nhau khu nào mình thả, vẫn có thu hoạch rau bằng xuồng hoặc nhưng ghe nhỏ chỉ thả rồi cắm cọc cho đừng trôi rồi tới ngày đi cắt và chẳng cần chăm sóc chi, rau muống vẫn mọc tốt và xanh um. Những đám rau này đôi khi lấp cả mặt nước của một đoạn sông. Và nó chắn lại biết bao nhiêu là loại rác rến. Nhờ những đám rau muống này mà đôi khi con nước lớn, con sông cũng đở thấy rác nhờ có một màu xanh man mác.
Thời đó sông Thị Nghè đã bắt đầu ô nhiễm nhưng không nặng như thời gian sau đó, lâu lâu vẫn thấy nhưng chiếc xuồng chài đánh cá. Loại cá đặc trưng ở sông Thị Nghè lúc đó là cá dứa, nghe nói là ngon. Khi kéo chài quan sát kỹ vẫn thấy những con cá dứa bụng trắng phếu được kéo lên. Lúc này nhưng loài cá như cá thòi lòi, cá kèo, cá bống, lươn, cá trê … cũng còn khá nhiều khi nước cạn có thể thấy. Khi nước lớn vẫn thấy cá bảy màu, cá bụng chữa, cá lìm kìm … rất nhiều. Không biết còn nhớ rỏ không, theo tui nhớ được hằng năm có khoảng hai con nước kéo dài một tuần là nước mặn tràn vào, lúc đó mặt nước sông trong veo có một màu xanh nhè nhẹ rất đẹp. Tụi nhỏ chúng tôi rất thích con nước này vì nước sông rất trong và sạch. Lúc đó là hàng đàn cá đối theo con nước lợ quẫy đuôi bơi nườm nượp.
Con sông thật hào phóng lúc đó, cạnh bên nghề chài lưới đánh cá là nghề chích điện, nghề này phải nói là sướng, khi tới mùa cá đối chỉ cần chích điện vào là hàng chục con ngã ngữa và họ chỉ có vớt lên. Nghề này khi nước cạn thì họ đi chích điện cá kèo, cá bống.
Thời này kinh tế khó khăn giao thông đường thủy vẫn còn quan trọng đối với Sài Gòn và miền nam nói chung. Chợ Thị Nghè là đầu mối giao thương lớn qua ngã sông Thị Nghè. Khi sản vật được chuyển từ miền tây và các vùng lân cận, thuyền bè dập dìu, xuồng lá chèo tay, đạp chân cho đến xuồng máy nổ bạch bạch liên hồi chở nào cũi, than, cừ, dừa, trái cây, … . Chợ Bà Chiễu cũng thông thương qua rạch Xuyên Tâm và nối với sông Thị Nghè và cũng là một chợ đầu mối lớn.
Nghe mấy người lớn nói ngày xưa sông Thị Nghè đẹp lắm, nước trong vắt, hai bên bờ cây cỏ um tùm, giới trung lưu, thượng lưu Sài Gòn còn ra đây cắm trại nghỉ mát. Qua thời gian dòng sông đã thay hình đổi dạng, lòng sông bị thu hẹp lại, phần thượng nguồn của dòng sông gọi là Nhiêu Lộc đã bị lấp hết một đoạn.Nhưng ký ức của người dân Sài Gòn – Gia Định vẫn không phai mờ về hình ảnh của nó gắn liền tới sự hình thành và phát triển của vùng đất Sài Gòn – Gia Định ngày nay.
Nguyễn Văn Danh
Viết ngày 9/4/2018